Tesla dẫn đầu danh sách những xe ít bị ảnh hưởng nhất bởi thuế quan của Chính quyền Trump

Ảnh: Mike Stewart, Associated Press

Nếu có điều gì chắc chắn về mạng lưới thuế quan quốc tế rối rắm của Tổng thống Trump, thì đó chính là người tiêu dùng Mỹ sẽ phải trả nhiều hơn trong những tháng tới khi mua xe mới, bao gồm ô tô, xe tải và SUV.

Hiện tại, một mức thuế 25% áp dụng cho tất cả các xe ô tô và xe tải hạng nhẹ nhập khẩu vào Mỹ, cùng với các linh kiện quan trọng như động cơ, hộp số, các bộ phận truyền động và linh kiện điện đã có hiệu lực từ ngày 2 tháng 4. Mặc dù điều này trễ 24 giờ so với ngày Cá tháng Tư, nhưng nó vẫn sẽ khiến người mua xe cảm thấy như trượt ngã trên vỏ chuối, mặc dù có thể một số người sẽ cảm thấy bị sốc giá nhiều hơn những người khác.

Trước đây, mọi người đều biết rằng các xe của ba hãng xe lớn từ Detroit sẽ được coi là “100% Mỹ”, trong khi những chiếc xe nhập khẩu từ châu Âu hay Nhật Bản (và sau này là Hàn Quốc) sẽ hoàn toàn thuộc diện nhập khẩu. Tuy nhiên, những ranh giới này đã trở nên mờ nhạt rất nhiều trong vài thập kỷ qua.

Các thương hiệu nhập khẩu như Toyota, Honda, Nissan, Kia, Subaru, Hyundai, Mercedes-Benz và BMW hiện nay sản xuất hàng trăm nghìn chiếc xe tại các nhà máy ở Mỹ. Ngược lại, một số mẫu xe của các hãng xe Mỹ lại được lắp ráp tại Canada và Mexico, hoặc nhập khẩu trực tiếp từ Hàn Quốc, Ý hoặc Trung Quốc. Các nguồn tin cho biết khoảng 46% số xe mới bán ra tại Mỹ trong năm ngoái được sản xuất ở các quốc gia khác.

Và nhờ vào toàn cầu hóa, ngay cả những chiếc xe “Mỹ nhất” cũng chứa một số thành phần nhập khẩu. Các báo cáo cho biết nhiều xe sản xuất tại Mỹ có đến 40% đến 50% hoặc hơn là các bộ phận và vật liệu nhập khẩu.

Việc phân tích số liệu trên mỗi mẫu xe được lắp ráp tại Mỹ để xác định chính xác mức thuế áp dụng có thể là một thử thách khó khăn. Điều này càng trở nên phức tạp hơn khi các bộ phận chính và các xe này thường xuyên đi qua nhiều biên giới trên đường đến lắp ráp cuối cùng và sau đó là các đại lý, điều này có thể khiến các khoản thuế tăng lên rất cao. Thêm vào đó, tỷ lệ phần trăm nhập khẩu trên một mẫu xe có thể thay đổi tùy theo cấp độ trang bị hoặc các tùy chọn mà xe có.

Ngoài ra, chưa rõ mức thuế đối với mỗi mẫu xe sẽ được chuyển trực tiếp cho người tiêu dùng hay sẽ được các nhà sản xuất hấp thụ như một phần chi phí hoạt động kinh doanh, có thể dưới dạng tăng giá từng mẫu xe hoặc “phí thuế bổ sung” ghi trên nhãn Monroney của xe. Một số nhà phân tích dự đoán rằng giá xe mới trung bình có thể tăng từ 5.000 đô la đến 15.000 đô la khi mọi thứ đã hoàn tất.

Hiện tại, những tăng giá này có thể mất vài tuần, thậm chí vài tháng mới được thể hiện đầy đủ, tùy thuộc vào độ rộng của các loại xe và phụ tùng đã có sẵn trong chuỗi cung ứng (và luôn có khả năng Tổng thống Trump sẽ thay đổi hướng đi đối với các xe nhập khẩu và hàng hóa khác bất kỳ lúc nào). Những người mua xe thông thái sẽ muốn biết trước khi bước vào phòng trưng bày xe rằng mẫu xe nào sẽ ít bị áp thuế hơn những mẫu xe khác. Hiện tại, Ford đã bắt đầu chiến dịch quảng cáo “Từ Mỹ, cho Mỹ” để làm nổi bật những mẫu xe Mỹ nhất của mình.

Vì việc xác định mẫu xe nào có tỷ lệ thành phần sản xuất trong nước cao hơn có thể là một thử thách lớn, Cục An toàn Giao thông Đường cao tốc Quốc gia yêu cầu các nhà sản xuất ô tô cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về quốc gia xuất xứ của từng xe (và các thành phần của nó) bán tại Mỹ. Tỷ lệ phần trăm các bộ phận Bắc Mỹ sử dụng, nơi lắp ráp xe và quốc gia xuất xứ của động cơ và hộp số được ghi trên nhãn “Monroney” của mỗi xe mới.

Thay vì phải đến từng đại lý một để thu thập thông tin này, Trường Kinh doanh Kogod của Đại học Mỹ tổng hợp chỉ số “Made in America Auto Index” hàng năm để xác định những mẫu xe hiện tại đóng góp nhiều nhất cho nền kinh tế Mỹ.

Ngoài nơi lắp ráp xe và xuất xứ của động cơ, hộp số, thân xe, nội thất, khung gầm, linh kiện điện và các bộ phận khác, nghiên cứu này còn tính đến nơi thực hiện nghiên cứu và phát triển và quốc gia nơi lợi nhuận từ mỗi mẫu xe cuối cùng được tạo ra. Tuy nhiên, do chỉ số này một phần dựa vào các thông tin được Cục An toàn Giao thông Đường cao tốc Quốc gia công bố, nên không hoàn toàn chính xác về việc lắp ráp và thành phần nhập khẩu từ Canada, vì cơ quan này coi cả lắp ráp và thành phần ở Mỹ và Canada (nhưng không phải Mexico) là xuất xứ Bắc Mỹ và do đó là sản phẩm nội địa.

Người bạn của Trump và cố vấn DOGE, Elon Musk, có thể là người hưởng lợi lớn nhất trong cuộc chiến thuế quan này, vì Tesla dẫn đầu ngành công nghiệp với tỷ lệ nội địa hóa trung bình 81%, đưa năm mẫu xe của mình lên đứng đầu bảng chỉ số “Made in America” hiện tại. Các mẫu xe của Tesla được lắp ráp tại Mỹ và nổi tiếng với việc sử dụng phần lớn các thành phần có nguồn gốc trong nước.

Mặc dù mọi người thường nghĩ rằng xe tải là những chiếc xe “hoàn toàn Mỹ”, nhưng mẫu xe xếp hạng cao nhất trong thể loại này lại là Honda Ridgeline, đứng ở vị trí thứ 9 và cao hơn nhiều so với chiếc xe bán chạy nhất ngành là Ford F-150 (ở vị trí thứ 22) trong chỉ số hiện tại của Kogod.

Ảnh: Tesla

Những chiếc xe “Mỹ nhất” – Ô tô, xe tải Và SUV

Dưới đây là những mẫu xe mà chỉ số “Made in America Auto Index” hiện tại cho thấy có khả năng bị áp thuế thấp nhất trong thời gian tới, với tỷ lệ phần trăm nội địa hóa ước tính:

STT Mẫu xe Tỷ lệ % nội địa hóa
1 Tesla Model 3 Performance 87,5%
2 Tesla Model Y 85,0%
3 Tesla Cybertruck 82,5%
4 Tesla Model S 80,0%
4 Tesla Model X 80,0%
4 Ford Mustang GT 80,0%
5 Honda Passport 76,5%
6 Jeep Wrangler 76,0%
7 Volkswagen ID.4 AWD 75,5%
7 Chevrolet Colorado 75,5%
7 GMC Canyon 75,5%
8 Volkswagen ID.4 RWD 74,5%
9 Honda Odyssey 74,0%
9 Honda Ridgeline 74,0%
9 Honda Pilot 74,0%
10 Lincoln Corsair 73,5%
11 Lucid Air 73,0%
11 Mustang GT w/manual trans 73,0%
12 Chevrolet Corvette Z06 72,5%
13 Lexus TX 350 71,5%
13 Acura RDX 71,5%
13 Honda Accord 71,5%
13 Acura TLX 71,5%
13 Acura Integra A-Spec 71,5%
14 Tesla Model 3 RWD 70,0%
14 Chevrolet Corvette Sting Ray 70,0%
15 Chevrolet Malibu 69,5%
15 Cadillac XT4 69,5%
16 Kia K5 69,0%
16 Kia Sorento 69,0%
16 Honda CR-V 69,0%
16 Honda Civic 69,0%
16 Acura Integra 69,0%
16 Cadillac CT5 69,0%
16 Cadillac CT4 69,0%
17 Chevrolet Tahoe 4WD Diesel 68,5%
17 Cadillac Escalade 68,5%
17 Chevrolet Suburban 4WD Premier 68,5%
17 GMC Yukon 4WD Denali 68,5%
17 Chevrolet Silverado Crew Cab 4WD Diesel 68,5%
18 GMC Hummer EV 68,0%
19 Tesla Model 3 Long Range 67,5%
20 Toyota Camry 67,0%

Nguồn: Chỉ số “Made in America Auto Index” của Trường Kinh doanh Kogod, Đại học Mỹ.

Danh sách đầy đủ có thể tham khảo tại đây.